Tuesday, March 31, 2015

Tham quan các ngôi chùa Sóc Trăng độc đáo

Sóc Trăng là vùng đất có trên 200 ngôi chùa lớn nhỏ của 3 dân tộc Kinh – Khmer – Hoa. Vì thế không có gì lạ khi đặt chân đến Sóc Trăng, hầu như huyện, xã nào cũng có sự hiện diện những ngôi chùa lớn nhỏ khác nhau, tạo nên quần thể kiến trúc đẹp mắt, linh thiêng và tôn vinh các giá trị lịch sử văn hóa truyền thống của vùng đất Sóc Trăng nói riêng và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Đã từ lâu rồi, một số ngôi chùa Sóc Trăng gần như là điểm đến không thể thiếu được của du khách gần xa mà bất cứ ai khi đến Sóc Trăng cũng phải ghé qua một lần


Chùa Dơi (Mahatup)

Đây được xem là ngôi chùa đầu tiên để du khách đến tham quan. Tương truyền, chùa Mahatup (còn gọi là chùa Mã Tộc) được xây dựng vào thế kỷ XVI. Chùa gồm 3 công trình kiến trúc chính là chánh điện, sala và nhờ thờ cố lục cả Thạch Chia. Chùa có tôn trí pho tượng đức Phật cổ bằng đá cao 1,5m và nhiều bộ kinh luật viết trên lá cây thốt nốt.
Khuôn viên chùa với nhiều cây cổ thụ là điểm trú ngụ của hàng ngàn con dơi như: dơi quạ, dơi ngựa lớn, dơi ngựa Thái Lan… có con nặng lên đến 1kg, sải cánh dài hơn 1,5m nên người dân địa phương quen gọi là chùa Dơi. Khi bóng chiều vừa xuống là lúc những đàn dơi buông cánh đi kiếm ăn, bay đi bốn phương tám hướng, tới sáng hôm sau mới về Chùa. Đến đây, du khách không khỏi ngạc nhiên trước vẻ đẹp tự nhiên có thể nói là một vùng đất kỳ bí “đất lành chim đậu”. Năm 1999 Chùa Mahatup được Bộ văn hóa thể thao và du lịch công nhận là di tích kiến lịch sử – văn hóa cấp quốc gia.


Chùa Khleang – Linh thiêng Sóc Trăng


Chùa Khleang - Sóc Trăng

Ngôi chùa này được xem là một trong những ngôi chùa cổ nhất tỉnh Sóc Trăng, được hình thành cách nay khoảng 500 năm, gắn liền với những truyền thuyết về địa danh Sóc Trăng. Chánh điện được xây dựng từ năm 1981, được thiết kế có 07 hàng cột ngang ở phía trước, mỗi hàng có 10 cây, trên trần và tường được vẽ nhiều hình ảnh, hoa văn, thể hiện sự hoà hợp giữa Phật pháp và hội hoạ.
Du khách đến đây được thưởng thức những hoạt động văn hóa nghệ thuật qua những ngày lễ hội truyền thống như: Tết Chôl chnăm Thmây, lễ hội Đolta, lễ hội Oc om boc và đua ghe Ngo. Trong chùa còn có nhà trưng bày các vật dụng của người Khmer xưa, những kinh Phật được viết trên lá thốt nốt. Ngôi chùa được sơn son, thếp vàng. Trông từ xa du khách có thể thấy sự uy nghi, trang trọng với lối kiến trúc hoa văn tinh tế, mang đậm nét Phật giáo Khmer Nam bộ. Năm 1990 Chùa Khleang được Bộ VHTTDL công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.


Chùa Đất Sét – Ngôi chùa có những cây nén cháy nửa thế kỷ chưa hết


Chùa đất sét - sóc trăng

Ngôi chùa đã có hơn 200 năm tuổi với tên gọi Bửu Sơn Tự. Nhìn bề ngoài nó giống như các ngôi nhà dân khác. Gia đình họ Ngô lập am thờ này để tu tại gia qua nhiều đời, vì vậy chùa không có sư, chỉ có người trong gia đình quản lý. Bước vào bên trong, sau khi được giới thiệu tỷ mỷ ta mới cảm phục sức lao động bền bỉ, sáng tạo phi thường của ông Ngô Kim Tòng – người đã dồn hết sức lực trong suốt 42 năm ròng rã để tạo nên 1901 bức tượng Phật, trên 200 mẫu tượng thú, bảo tháp, lư hương… đều bằng đất sét.
Đặc biệt trong chùa có 8 cây nến: 6 cây lớn chưa đốt và 2 cây nhỏ hơn đang cháy. Trọng lượng mỗi cây nến lớn khoảng 200kg, cao 1,6m, ước cháy liên tục khoảng 70 năm. Tại đây còn có 3 cây hương (nhang) mỗi cây cao 1,5m chưa đốt. Chùa Đất Sét đang là một trong những điểm tham quan hấp dẫn nhất ở thành phố Sóc Trăng.


Chùa Chén Kiểu (Sà Lôn) – Ngôi chùa được ốp từ hơn 9000 chén đĩa


Chùa chén kiểu - Sóc trăng

Nét đặc sắc ở ngôi chùa là sử dụng những chén, dĩa sứ ốp lên tường trang trí nên có tên gọi là chùa Chén Kiểu. Đến với chùa Chén Kiểu, ấn tượng đầu tiên của du khách chính là hai con sư tử bằng đá ngồi trên một bệ cao trước cổng chùa, mặt hướng ra đường như bảo vệ ngôi chùa. Bên trong là chiếc cổng chùa với 3 ngôi tháp được chạm khắc, đắp nổi với hoa văn và sắc màu rực rỡ mang đậm màu sắc văn hóa Khmer Nam Bộ.
Cũng như các ngôi chùa khác của người Khmer, chùa Chén Kiểu bao gồm chánh điện, nhà hội và tháp bảo, nơi để sách kinh dạy học. Khuôn viên chùa Chén Kiểu rất rộng với nhiều cây xanh. Quanh các cây cột đều được chạm khắc, đắp nổi các hình ảnh trong truyền thuyết văn hóa Khmer. Hai bên bức tường có nhiều tranh vẽ kể câu chuyện đức Phật Thích Ca từ khi sinh ra cho đến khi đắc đạo. Khi vào trong chùa, du khách sẽ càng ngạc nhiên hơn bởi toàn bộ trần nhà, các bức tường, vật trang trí như bình hoa, họa tiết rồng, cột chính… đều được làm từ sứ đủ màu sắc.

Ngoài ra, điều tạo lên sự độc đáo của ngôi chùa chính là việc chùa được ốp bởi hàng nghìn chiếc bát, đĩa. Ngoài 9.000 bát, đĩa nguyên vẹn, chánh điện và sala của ngôi chùa gần 200 năm tuổi này còn được ốp tường bằng những mảnh vỡ sành sứ. Đặc biệt, chùa Sà Lôn còn lưu giữ một bộ Trường kỷ cẩn xà cừ và hai chiếc giường bằng gỗ quý hiếm được chạm, khảm rất tinh tế, nhà chùa mua lại trong phần gia sản của công tử Bạc Liêu năm 1947.

.

Chùa La Hán


Chùa La Hán - Sóc Trăng

Chùa La Hán được xây dựng từ năm 1952 là 1 căn nhà lá, vách ván do người Hoa Triều Châu quản lý. Năm 1990, chùa được xây lại khang trang gồm 2 tầng: Tầng dưới thờ Phụng Thiên Hậu Nương Nương, Bạch hầu Công, Ôn Thần và chư Tiên Cô, Tiên Hữ. Tầng trên thờ phụng Phật Thích Ca, Thập Bát La Hán, Thái Thượng Lão Quân và chư Bồ Tát…
Trước chùa là 1 hoa viên đẹp có thờ Phước Đức Lão Ông, tượng Phật Bà Quan Âm, cùng cảnh vật như: Ao sen, núi Phổ Đà, đèn bát bửu, các tượng tạc rồng bay phượng múa, đôi ngọc kỳ lân, và còn có hồ rùa với ngôi đình. Có thể nói đây là một trong những thắng cảnh đặc sắc của Sóc Trăng. /.
Nếu có dịp đến Sóc Trăng, du khách đừng quên ghé thăm những ngôi chùa Khmer cổ kính để hiểu rõ hơn về bản sắc văn hóa cũng như đời sống tâm linh của đồng bào Khmer Nam bộ. Với tiềm năng du lịch văn hóa đặc sắc và đa dạng, hàng năm, Sóc Trăng thu hút rất nhiều khách thập phương đến hành hương và khám phá.

Monday, March 30, 2015

Vườn nhãn cổ Bạc Liêu

Tại Bạc Liêu có khu vườn nhãn cổ đến nay đã trên trăm tuổi. Đây là vườn nhãn đặc biệt nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, là niềm tự hào của người dân địa phương và còn là điểm thu hút khách phương xa đến tham quan.
Vườn nhãn cổ Bạc Liêu rộng khoảng 230 ha bởi thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho nơi đây những vùng đất màu mỡ, tạo điều kiện cho giống nhãn cổ phát triển sum xuê hơn cả trăm năm nay với những cây gốc to hơn 2 người ôm không xuể, tán lá rộng mát, tạo nên không gian thanh bình.


  Nơi đây nổi tiếng với 2 giống nhãn Su-bic và Tu-huýt có giống từ Trung Quốc. Giống Su-bíc cho trái to, vỏ mỏng, cơm dày, rất thơm và ngọt, còn giống Tu-huýt trái nhỏ, hạt nhỏ, nhưng cơm dày, vị ngọt. Vườn nhãn thu hút, to và cao nhất vùng là của gia đình ông Trương Kiết tại ấp Chòm Xoài, xã Hiệp Thành. Tại đây có một cây nhãn do cụ Trương Hưng trồng đầu tiên, giờ trở thành cây nhãn cổ thụ gốc to 2 người ôm không giáp. Ông Trương Kiết xem cây nhãn “tổ” này như là báu vật của ông bà để lại, hàng ngày ra vào chăm sóc chu đáo.


Ngoài việc nếm những trái ngon ngọt, bạn còn có thể nằm nghỉ ngơi dưới gốc nhãn, lắng nghe tiếng chim hót ríu rít và những tia nắng len lỏi qua những kẽ lá, soi rọi xuống mặt đất lung linh. Đến đây, bạn không chỉ được thư giãn trong không gian xanh rộng và khoáng đạt mà còn được cắm trại, dã ngoại, tham gia thu hoạch nhãn chín. Nếu đến vào dịp lễ Tết như Trung thu, bạn còn có cơ hội vui chơi tại lễ hội địa phương, nghe đờn ca tài tử, nghe người Bạc Liêu hát bài “Dạ cổ hoài lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu hay tìm hiểu văn hóa đất giồng giao thoa của người Kinh, người Khmer và người Hoa.


Ngày nay, nhãn Bạc Liêu không còn cạnh tranh nổi với nhãn miệt vườn nhưng du lịch sinh thái vườn nhãn đang được chú trọng. Tỉnh Bạc Liêu xác định vườn nhãn là một trọng điểm của du lịch sinh thái nên đã chú ý đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Trong một không gian rất trữ tình, đến là muốn ngồi tâm sự, đến là muốn thả hồn phiêu diêu mà thừa hưởng sự mát mẻ, trong lành của thiên nhiên.

Sunday, March 29, 2015

Khám Phá Nhà công tử Bạc Liêu

Nhà công tử Bạc Liêu được xây dựng vào khoảng năm 1919, lúc đó “Công tử Bạc Liêu” Trần Trinh Huy khoảng 19, 20 tuổi. Ngôi nhà do kỹ sư người Pháp thiết kế và tất cả vật liệu để xây dựng đều được đưa từ bên Pháp qua. Hầu hết mọi vật liệu xây dựng, từ thép đúc, cửa, cẩm thạch lát nền, gạch, khung sắt trang trí đến ốc vít đều có khắc chữ “P” chìm, như minh chứng nguồn gốc xuất xứ của nó tại thủ đô Paris hoa lệ. Ngoài tên gọi nhà công tử Bạc Liêu, căn biệt thự còn được dân địa phương quen gọi là nhà Lớn. Sau khi hoàn thành, đây được xem là ngôi nhà bề thế nhất ở Nam kỳ lục tỉnh lúc bấy giờ.


  Cấu trúc ngôi nhà theo phong cách phương Tây vào đầu thế kỷ XIX – Đây là phong cách kiến trúc hiện đại nhất của phương Tây lúc bấy giờ, nó được kết hợp với phong thủy phương Đông. Ngôi nhà gồm một tầng trệt một lầu, trang trí bằng nhiều đường viền chỉ và hoa văn nổi, gồm 4 phòng và 4 đại sảnh được bao quanh bằng lối hành lang rộng rãi làm cho ngôi nhà luôn mát mẽ và thông thoáng.


Không chỉ đẹp về kiến trúc, nội thất mà ngôi nhà còn quy tụ vô số đồ gỗ, sứ, đồng… quý hiếm. Các bộ bàn ghế trong nhà đều được khảm xà cừ rất tinh xảo, những chiếc ấm, tách trà được trang trí hoa văn rồng bay, phượng múa rất mềm mại góp phần tô điểm cho ngôi nhà thêm sống động… Ngày nay, những bảo vật đó phần lớn không còn do nhiều nguyên nhân nhưng những thứ còn lại cũng đủ để nói lên sự giàu có của gia đình ông Hội Trạch lúc bấy giờ.


Đặc biệt, nơi đây còn 1 phòng gọi là “phòng công tử” bởi trước kia đó là phòng của ông Trần Trinh Huy. Du khách muốn ở căn phòng này phải đặt trước cả tháng, trong phòng có đầy đủ tiện nghi, đồ đạc rất đẹp và quý cho xứng tầm với 1 công tử nhà giàu. Điểm độc đáo nhất ở nơi đây là chiếc máy điện thoại có từ đời Pháp thuộc đến giờ vẫn sử dụng tốt được.


Sau khi đã được tôn tạo, sưu tầm nhiều hiện vật được cho là của công tử Bạc Liêu, khu dinh thự công tử Bạc Liêu đã thu hút cả ngàn khách tham quan mỗi ngày. Nếu có dịp tới Bạc Liêu, bạn đừng quên ghé thăm chiêm ngưỡng cơ ngơi đồ sộ một thời này.

Saturday, March 28, 2015

Nhà cổ Huỳnh Phủ – Bến Tre

Ai về thăm xứ Đại Điền, Thạnh Phú, Bến Tre sẽ không khỏi bỡ ngỡ khi đứng trước ngôi nhà cổ đẹp, bề thế của gia tộc họ Huỳnh. Dẫu trải qua hàng trăm năm với bao cuộc bể dâu, ngôi nhà vẫn còn mang trong nó nét đặc sắc của nhà cổ đồng bằng và cái lộng lẫy của gia chủ một thời sung túc.
Nhà cổ Huỳnh Phủ hay còn gọi là nhà cổ Hương Liêm là một kiến trúc nhà cổ đẹp thuộc dạng hiếm hoi hiện còn của tỉnh Bến Tre. Hương Liêm tên thật là Huỳnh Ngọc Khiêm (1843 – 1927) là tri huyện hàm, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre – một trong những người giàu vào bậc nhất, nổi tiếng ở vùng cù lao Minh và tỉnh Bến Tre lúc bấy giờ.


 Nhà cổ Huỳnh Phủ hiện tại gồm ngôi nhà chính có diện tích trên 500m2 với một căn phụ bằng gạch nối liền ở góc phải. Nhìn từ bên ngoài và theo các hàng cột phía trước của ngôi nhà, ta thấy có chín gian, nhưng thực ra đây là ngôi nhà ba gian được mở rộng ra bốn phía, một kiểu nhà rất to ngày xưa và chỉ những người thật sự giàu mới có khả năng xây dựng.

Nhà xây dựng trên nền cao 0,7m, chung quanh được kè đá xanh, thềm cũng được viền bằng loại đá này. Nhà có 80 cây cột, trong đó 48 cột gỗ và 32 cột gạch làm theo kiểu nhà rường ở Huế. Mái lợp ngói âm dương, bên dưới là lớp ngói có hoa văn. Hai đầu song được xây kín và trang trí hình một bông hoa 4 cánh.


Nội thất và sườn nhà làm bằng các loại gỗ có giá trị cao như: lim, thau lau. Nội thất chia thành 2 phần: từ cột nhất của mặt hậu vào phục vụ sinh hoạt gia đình, từ cột nhất của mặt hậu trở ra cột hàng nhì của mặt tiền sử dụng vào việc thờ tự. Phía tả thờ Cửu Huyền Thất Tổ, giữa thờ Phật Bà Quan Âm, phía hữu thờ ông, bà Huỳnh Ngọc Khiêm.


Tất cả các bức hoành phi, bài vị, biển đề… đều viết bằng chữ Hán, khắc vào gỗ, chạm trổ hoa văn công phu, sơn son thiếp vàng đạt tới trình độ cao của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Đó là những bức tranh sinh động mô tả cảnh vật thiên nhiên vùng sông nước, của vùng đất cù lao bốn mùa cây xanh, trái ngọt, cảnh vật thanh bình, chim muôn ca hát, cùng các loại sinh vật khác.


Khu mộ cách ngôi nhà cổ 3km thuộc xã Phú Khánh có diện tích 966m2. Vật liệu xây dựng là đá xanh từ hàng rào bên ngoài cho đến phần lăng mộ bên trong. Rào cao khoảng 1,5m gồm 2 phần: phần trên là những thanh đá được cắt hình chữ nhật hoặc hình tam giác, phần dưới là những phiến đá nguyên.

Hơn 100 năm đã trôi qua, thế sự biết bao thay đổi. Nhà ông Hương Liêm giờ rêu phong, đứng trầm mặc bên cạnh con đường đất đỏ như để minh chứng cho thời vàng son của nó khi xưa. Nhà cổ Huỳnh phủ và khu mộ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 2011.

Friday, March 27, 2015

Chùa Tuyên Linh – Bến Tre

Khi kể về chùa Tuyên Linh, phần lớn người dân Minh Đức đều thể hiện niềm tự hào, bởi trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng, trước những năm Đồng Khởi trong thế kìm kẹp khắc nghiệt của chế độ Mỹ – Diệm, Minh Đức vẫn là nơi có phong trào cách mạng phát triển. Những ngày khó khăn nhất của cách mạng, các cơ quan Huyện ủy Mỏ Cày, Tỉnh ủy Bến Tre đã từng đóng tại chùa Tuyên Linh.


Năm 1907, nhà sư Lê Khánh Hòa, pháp danh là Thích Như Trí, quê ở xã Phú Lễ, huyện Ba Tri về trụ trì tại chùa này. Là một cao tăng rất tinh thông Phật học, Hòa thượng Lê Khánh Hòa đã thuyết giảng giáo lý nhà Phật, đào tạo môn sinh, sáng lập ra Nam kỳ Phật học hội và Lưỡng Xuyên Phật học hội quy tụ nhiều cao tăng, cư sĩ Phật giáo ở Nam kỳ lúc bấy giờ.

Chùa Tuyên Linh là nơi mà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Bác Hồ, nhiều lần ghé lại tá túc. Thời gian cụ Phó bảng ở đây lâu nhất là từ năm 1927 đến 1929. Trong thời gian lưu trú tại chùa, cụ Phó bảng đã mở lớp dạy học, xem mạch bốc thuốc cho nhân dân trong vùng và cùng Hòa thượng Lê Khánh Hòa bàn việc dân, việc nước.


Trong 2 cuộc kháng chiến, chùa Tuyên Linh còn là nơi che giấu, nuôi dưỡng cán bộ cách mạng nên đã hai lần bị giặc dùng máy bay ném bom, phá hủy và đốt chùa. Sau chiến tranh, chùa được trùng tu nhiều lần và được xây mới vào năm 1999 trên nền cũ với diện tích khuôn viên chùa trên 9.000m2. Nơi đây ngoài bàn thờ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và cụ Tổ Khánh Hòa, chùa còn có bàn thờ ảnh và bức tượng Bác Hồ bằng đá uy nghi, trang trọng, thành kính.



Ngày 19/5 hàng năm, chùa Tuyên Linh tưng bừng diễn ra ngày hội thiêng liêng. Lễ hội được tổ chức trang nghiêm, thành kính, họp mặt truyền thống, thắp hương tưởng niệm tại bàn thờ cụ Phó bảng và cụ Tổ Khánh Hòa và tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ tạo không khí vui tươi phấn khởi trong ngày hội.

Thursday, March 26, 2015

Lăng mộ cụ Nguyễn Đình Chiểu – Bến Tre

Cách thành phố Bến Tre khoảng 36km, khu lăng mộ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân Bến Tre xây dựng để tưởng niệm người đã mở trường dạy học và khám chữa bệnh cho dân nghèo. Khu mộ được xây dựng từ đất của một học trò cũ do thầy chỉ dạy.


 Trước cổng đền, phía trái có nhà tiếp đón các đoàn khách, các cá nhân từ mọi miền đất nước về viếng cụ. Từ cổng đền đến nhà bia có sân rộng lát đá chẻ viền cỏ xanh rất khoáng đạt, khu vực đền còn trồng nhiều cây kiểng quý, được uốn tỉa công phu. Cả khu vực thành một hệ thống liên hoàn hòa nhập với quang cảnh xanh tươi vốn có của vùng quê An Đức. Đền thờ hình tròn với 3 tầng mái tượng trưng cho ba nghề nghiệp của cụ Đồ Chiểu (nghề dạy học, bốc thuốc và làm thơ ).


Trong lăng là một vườn hoa kiểng xanh mơn mởn. Tiền đình lăng là một nhà vuông to, gọn với hai mái chồng, lợp ngói âm dương xanh. Giữa tiền đình là một tấm bia to, kể sơ lược tiểu sử, thân thế, sự nghiệp của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu. Phía dưới khu điện thờ trang nghiêm tôn kính với bốn hàng chữ ở hai bên bệ thờ ghi lại những câu nói nổi tiếng của ông: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” và “Nhân nghĩa sáng ngời vầng nhật nguyệt/Văn chương tỏa rạng ánh sao khuê”.


Nhà lưu niệm trưng bày, triển lãm một số hình ảnh của các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đã từng đến thăm khu lăng mộ, phía sau, bên trái nhà tưởng niệm cũ là phần mộ của cụ đồ với phu nhân. Mộ cụ Nguyễn Đình Chiểu khắc chữ Nhật, mộ cụ bà Lê Thị Điền khắc chữ Nguyệt. Cạnh đó là nơi yên nghỉ của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái của nhà thơ, bà là một trong những nhà thơ, nhà báo rất nổi tiếng vào đầu thế kỷ XX.

Khu di tích được Bộ văn hóa – Thông tin công nhận là di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia ngày 27-4-1990.

Wednesday, March 25, 2015

Khám phá vẻ đẹp cồn Phụng Bến Tre

Trước đây cồn Phụng có tên là cồn Tân Vinh. Về sau, nó còn có một tên gọi khác là cù lao Đạo Dừa. Nguyên do là vì ông Nguyễn Thành Nam (1909-1990) đã đến đây xây chùa Nam Quốc Phật và thành lập nên một giáo phái gọi là Đạo Dừa vào đầu thế kỷ 20. Đây là một trong bốn cồn nằm trên đoạn sông Mỹ Tho được đặt theo quan niệm tứ linh mang điềm an lành hạnh phúc là: Long, lân, quy, phụng. Cồn Rồng là “long”, cồn Thới Sơn là “lân”, cồn Biện Quy là “quy”, và cồn Tân Vinh là “phụng”.


  Cồn Phụng dành một phần diện tích để bảo tồn nguyên trạng những gì liên quan đến ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam: nhà bảo tàng tranh ảnh về ông, sân 9 con rồng, tháp Hòa bình… Phần lớn diện tích còn lại, cồn Phụng được bố cục theo kiểu nhà vườn Nam Bộ: Nhà ăn trên hồ và cầu tre (cầu khỉ) bắc qua “sông”.

Là một trong những nơi cung cấp trái cây nhiều nhất Bến Tre, cồn Phụng đón du khách với hương thơm ngào ngạt của sầu riêng, của cây mít tố nữ sai quả, những chùm dâu chín vàng, chôm chôm đỏ au… Thêm một cái hay nữa tất cả trái cây nơi đây đều được mời ăn miễn phí.


Sản phẩm nổi bật nhất của cồn Phụng chính là đồ mỹ nghệ làm từ thân, trái, vỏ dừa. Nghề làm đồ mỹ nghệ này của Bến Tre đã có từ hơn chục năm nay. Tại đây có nhiều món đồ lưu niệm: từ những chiếc mặt nạ xanh đỏ, khung ảnh, chiếc xe ba gác, hình tranh cây dừa Bến Tre và cô gái mặc chiếc áo dài thướt tha đến đồ dùng nhà bếp như chén, bát,… đều được chế tác từ dừa. Do nguyên liệu và nhân công “tại gia” nên giá sản phẩm rất rẻ, từ vài ngàn đến vài chục ngàn là phổ biến.


Bên cạnh nghề làm thủ công mỹ nghệ, ở cồn Phụng còn có mô hình làm kẹo dừa. Đây là đặc sản không thể không nhắc đến khi du khách đến với Bến Tre. Đến cồn Phụng, bạn có thể trực tiếp chứng kiến qui trình làm kẹo dừa của người dân địa phương: pha chế, quay kẹo (nấu), cán kẹo, cắt, gói, đóng hộp.



Ngoài ra, du khách còn được khám phá cuộc sống dân dã miệt vườn của người dân địa phương, tham gia các thú vui dân gian như: câu cá giải trí, câu cá sấu, be mương bắt cá, chèo thuyền, tắm sông, đi xe đạp, đi xe ngựa trên đường làng, chiêm ngưỡng nét đẹp quyến rũ của vùng đất Tứ linh “ Long – Lân – Quy – Phụng ”. Thưởng thức những món ăn đặc sản sông nước miệt vườn: cá tai tượng chiên xù, bánh xèo, xôi chiên phồng, gà nướng lu, đuông dừa chiên bơ…

Với những gì thiên nhiên đã ban tặng và do bàn tay con người tạo nên, cồn Phụng đã là một trong những điểm hấp dẫn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước cùng nhau hội tụ về đây tham quan, vui chơi giải trí, nghỉ ngơi… cùng hòa mình vào không gian sông nước miệt vườn đầy lý thú.

Tuesday, March 24, 2015

Sân chim Vàm Hồ – Bến Tre

Sân chim Vàm Hồ là nơi trú ngụ của gần 500.000 con cò, vạc, và các loài chim thú hoang dại khác cùng với rừng chà là và thảm thực vật phong phú gồm các loại cây ổi, so đủa, đậu ván Vườn chim là hệ sinh thái đặc sắc, tiêu biểu cho rừng ngập mặn ven biển cửa sông Cửu Long, có giá trị sinh học cao và tiềm năng phát triển du lịch sinh thái.


  Theo thống kê, sân chim Vàm Hồ có khoảng 84 loài thuộc 35 họ và 12 bộ khác nhau; đông đảo nhất phải kể đến cò trắng, cò ngang nhỏ, vạc, diệc xám…; các bụi cây thấp hơn là thế giới của các loài cuốc, bìm bịp, chèo bẻo….; dưới cùng là nơi sinh sống của các loài thú hoang dã như dơi, chồn, rắn, sóc, trăn. Thời gian chim về cư trú sinh sản từ tháng 4 đến tháng 10 âm lịch.

Vàm Hồ là vùng đất ngập mặn, nhiều loại cây hoang dã mọc thành rừng. Ở tầng cao có dừa nước (trước đây rất nhiều, nên nơi này còn gọi là Cù lao Lá), chà là, đước, mắm, là nơi lý tưởng cho chim ở. Ở tầng thấp có cây ô rô, cóc kèn, lau sậy… là thảm thực vật cho cò, vạc làm tổ sinh sản.


Hàng ngày, cứ tầm 4, 5 giờ chiều, nhìn về hướng Tây, từ phía chân trời xa xa, những chấm nhỏ li ti di động ngày càng rõ dần, giây lát sau là đàn cò hàng ngàn con đang vỗ cánh bay qua sông Ba Lai, lượn lờ dưới ánh hoàng hôn rồi nhẹ nhàng đáp lên thảm rừng chà là xanh biếc. Chim về, cả cánh rừng xao động bởi tiếng chim con đói mồi hòa lẫn với từng tiếng kêu oang oác rất to của những chú cò bực bội.


Tới thăm sân chim Vàm Hồ, du khách được đi dạo đường rừng, bơi xuồng len lỏi trong rừng ngập mặn, tham quan khu căn cứ kháng chiến, đi qua những chiếc cầu tre lắt lẻo, thưởng thức các món ăn dân dã từ tôm, cá, rùa… vừa bắt từ dưới ao lên, ngả lưng trên chiếc võng đung đưa dưới tán lá rừng, hít thở không khí trong lành của dòng sông Ba Lai thơ mộng.

Monday, March 23, 2015

Miệt vườn Cái Mơn – Đủ đầy hoa thơm trái ngọt Bến Tre

Từ lâu Bến Tre được biết đến không chỉ là xứ dừa mà còn nổi tiếng với những vườn cây quanh năm xanh mát. Tiêu biểu cho những làng vườn nơi đây phải kể đến miệt vườn Cái Mơn, một làng vườn thuần chất Nam Bộ bốn mùa đều tụ hội đủ cả hoa thơm và trái ngọt.


  Đến đây, du khách sẽ bị cuốn hút trước những vườn chôm chôm chín đỏ, vườn dâu xanh ngắt, vườn măng cụt, bòn bon với những buồng trái trĩu quả từ gốc đến ngọn hay những liếp cam, quýt, bưởi, nhãn che khuất cả lối đi. Trái cây ở đây còn có cả xoài, chuối, cóc, ổi, mãng cầu xiêm, mít, vú sữa, hồng xiêm, lêkima, táo, đu đủ… Du khách có thể vào tận vườn tự tay hái và thưởng thức những trái chín thơm ngon, nghe chủ vườn giới thiệu và hướng dẫn cách chăm sóc từng loại cây để có được những mùa quả năng suất, chất lượng cung cấp cho thị trường cả nước.


Ngoài trái cây, Cái Mơn còn được biết đến như xứ sở của rất nhiều loài hoa bao gồm: vạn thọ, giấy, cúc đại đóa, cúc mâm xôi, thược dược, cẩm chướng…, cùng hàng chục giống hoa hồng (hồng nhung, hồng lay-ơn, hồng Elizabeth, hồng Korokit, hồng vàng, hồng đỏ, hồng cam, hồng phấn…). Ở đây còn có các loại cây kiểng quý hiếm như: sung, si, khế, bùm sụm, cau, mai, đinh lăng tía, tiểu huyết dụ, ngũ gia bì… và các loại kiểng lá như: hồng lộc, kim phát tài, dạ lan thanh, trúc bách hợp, kiểng tắc, mai vàng, đặc biệt là kiểng thú hình hươu, nai, rồng, phượng… rất đẹp mắt. Mỗi năm, làng nghề Cái Mơn cung cấp cho cả nước hàng trăm giống hoa kiểng các loại và xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản…


Đến Cái Mơn, du khách sẽ được tham quan những điểm thú vị như vườn ươm ghép cây giống, nghe thuyết trình về kỹ thuật chăm sóc gà nòi, tận mắt xem các nghệ nhân uốn các loại cây kiểng thành hình thú như nai, cá hóa rồng, ngựa… vô cùng sống động. Ngoài ra, đến xã Vĩnh Thành, du khách cũng có dịp tham quan nhà thờ Cái Mơn – một trong những nhà thờ cổ (xây dựng năm 1872) lớn nhất Nam Bộ, nơi sinh hoạt tôn giáo của hơn 90% cư dân xã Vĩnh Thành. Đối diện nhà thờ Cái Mơn là nhà bia tưởng niệm nhà bác học Trương Vĩnh Ký, một trong những vị bác học nổi tiếng thế giới thế kỷ 19, người biết trên 20 ngoại ngữ và có 118 tác phẩm được xuất bản.


Dạo bước dọc các trục đường quanh co uốn lượn qua những khu vườn xanh mát đậm chất nghệ thuật, du khách sẽ thấy tựa như đang lạc vào những khu vườn thượng uyển. Chiều về, du khách có thể đứng trên những cây cầu khỉ cong vút ngắm hoàng hôn đỏ lựng phía tây rạch Cái Mơn, đến các quán ăn lợp lá dừa nằm dọc đôi bờ con rạch hoặc ẩn mình giữa vườn cây cảnh đẹp như tranh để nhâm nhi các món ăn đặc sản Bến Tre, thả hồn du dương nghe thiếu nữ Cái Mơn duyên dáng trong tà áo bà ba đờn ca tài tử.

Sunday, March 22, 2015

Nhà trăm cột – tuyệt phẩm kiến trúc Long An

Nằm bên bờ sông Vàm Cỏ Đông thơ mộng, cách thành phố Tân An, tỉnh Long An chừng 50 km, di tích nhà trăm cột là một trong những công trình kiến trúc độc đáo của tỉnh Long An còn được lưu giữ gần như nguyên vẹn tới ngày nay.

Nhà trăm cột được ông Trần Văn Hoa khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành tại xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước năm 1903 bởi một nhóm thợ tài hoa từ làng Mỹ Xuyên – làng chạm khắc mộc nổi tiếng của Thừa Thiên – Huế thực hiện bằng chất liệu chủ yếu là các loại gỗ quý như cẩm lai, mun…


  Gọi là nhà trăm cột nhưng ngôi nhà này có tới 120 cột với 64 cột vuông và 56 cột tròn, mang dấu ấn phong cách kiến trúc kinh thành Huế. Với diện tích 882m2, nhà trăm cột tọa lạc trên một khu vườn rộng 4.044m2, chính diện quay về hướng sông Vàm Cỏ Đông. Nhà hoàn toàn bằng gỗ (cẩm lai, gõ đỏ, gõ mật), mái lợp ngói âm dương, nền nhà bằng đá tảng cao 0,9m, mặt nền lát gạch Tàu lục giác.


Nhà được làm hoàn toàn bằng gỗ, đá màu xanh, đẽo gọt cầu kì, tinh xảo. Nguyên vật liệu đa phần lấy từ vùng thượng nguồn sông Đồng Nai, Bình Dương sau đó theo thuyền xuôi dòng sông Vàm Cỏ về đây. Nền nhà lát bằng gạch lục giác nung đỏ, được giữ nguyên vẹn tới bây giờ. Ngôi nhà hình chữ Quốc, gồm ba gian hai chái, có sân sau, nhà bếp và nhà ngủ, khu vực làm lúa. Các họa tiết trang trí và điêu khắc rất tỉ mỉ tinh xảo, có giá trị văn hóa và kiến trúc rất cao được hình thành bởi bàn tay tài hoa của những nghệ nhân bậc thầy về chạm khắc.


Toàn bộ hệ thống kèo, xuyên được chạm nổi, chạm lọng theo kiểu “vân hóa long” hoặc “dây hóa lá” hay “tứ thời”… là những nét đặc trưng của kinh thành Huế. Hai gian “ngoại khách” và “nội tự” thể hiện tập trung nét đặc sắc nhất của nghệ thuật chạm khắc. Tại đây, còn lưu giữ những bộ ghế, bàn, tủ, nhiều vật dụng như đèn tứ long thắp bằng dầu lửa làm từ gỗ rất độc đáo…

Qua thời gian dài, ngôi nhà vẫn giữ được gần như nguyên bản, trở thành một điểm du lịch độc đáo cho du khách mỗi khi có dịp xuôi dòng sông Vàm Cỏ Đông thơ mộng hay dọc tuyến quốc lộ 50. Năm 1997, nhà trăm cột đã được Bộ Văn Hóa – Thông Tin xếp hạng là Di tích lịch sử – văn hóa Quốc Gia.

Friday, March 20, 2015

Núi Đất – Long An

Núi Đất là ngọn núi hình thành không do quy luật vận động, biến đổi của thiên nhiên mà bằng chính sức người nên công trình ấy trở thành “độc nhất vô nhị” của vùng Đồng Tháp Mười nói riêng và Việt Nam nói chung. Đây chính là những ngọn núi giả được những tù nhân chính trị thời Ngô Đình Diệm đắp từ những năm 1957 – 1960, nằm trong kế hoạch chấn chỉnh địa lý hành chính và xây dựng tỉnh Kiến Tường ở Mộc Hóa.


  Từ xa nhìn đến, Núi Đất như hòn non bộ khổng lồ nổi lên giữa một hồ nước trong xanh, êm đềm và thơ mộng. Nối liền Núi Đất với bờ là chiếc cầu bằng xi măng cách điệu uốn cong, mềm mại. Khu Núi Đất chia làm ba tiểu đảo: Tiểu đảo 1 có núi lớn cao khoảng 10m, núi nhỏ cao 5m với nhiều tảng đá ong rêu phong theo thời gian, xen lẫn trong những cây cổ thụ tỏa bóng mát rượi, có đường lên xuống bằng các bậc đá. Xung quanh núi là những lối đi bằng đất được kè đá men theo mép nước đảm bảo độ an toàn cho khách du ngoạn. Tiểu đảo 2 là một ngọn núi nhỏ cũng được đắp bằng đất nối liền với tiểu đảo 1 bằng cây cầu dài nhỏ.


Tiểu đảo 3 nằm phía bên trái hồ sen, được tạo dáng như hòn non bộ bằng đá trồng hai cây bồ đề phủ lên. Trong lòng hồ còn có hai nhà thủy tạ để du khách ngồi hóng mát, trò chuyện, trên bờ là hệ thống nhà làm việc, nhà tiếp khách, nhà hàng ăn uống, khu trồng hoa kiểng, nuôi chim thú.



Nếu chưa một lần đến miền biên ải Mộc Hóa, ít ai có thể hình dung nơi vùng đất còn nghèo khó này lại có một khu du lịch khá đẹp như vậy. Càng thú vị hơn sau một chặng đường dài du khách đã thấm mệt, khi đến đây được tận hưởng bầu không khí trong lành, mát dịu, leo lên đỉnh núi gió phả vào mặt, cảm giác miên man khó tả.

Thursday, March 19, 2015

Đến Long An thăm các di tích lịch sử Quốc gia

 

Vàm Nhựt Tảo


Là nơi giao hội giữa sông Vàm Cỏ Đông và sông Nhựt Tảo, Vàm Nhựt Tảo là một vùng sông nước phẳng lặng hiền hòa thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.


 Vàm Nhựt Tảo - Long An

Nơi đây gắn liền với người anh hùng Nguyễn Trung Trực, người đã chỉ huy cuộc tấn công làm chìm tàu L’ Espérance của Pháp vào ngày 10 tháng 12 năm 1861. Những hiện vật của con tàu này đang được trưng bày tại bảo tàng Long An. 135 năm sau ngày Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu L’ Espérance, Vàm Nhựt Tảo đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích Quốc gia năm 1996 bởi những giá trị, ý nghĩa sâu sắc chứa đựng trong đó.

Đồn Rạch Cát


Đồn Rạch Cát tọa lạc tại vị trí ba mặt sông rất đẹp, là nơi hai con sông Vàm Cỏ và Rạch Cát cùng đổ vào sông Soài Rạp.


Đồn Rạch Cát - Long An

Đồn Rạch Cát là một pháo đài kiên cố, kiến trúc độc đáo, được thực dân Pháp xây dựng nhằm án ngữ con đường từ biển Đông vào Sài Gòn – Chợ Lớn. Đây là một pháo đài quân sự vào loại lớn nhất, nhì Việt Nam do thực dân Pháp xây dựng ở nước ta từ năm 1903 và hoàn thành năm 1910 tại ấp Long Ninh, xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước. Đứng bên cạnh những khẩu pháo 105mm trên nắp hầm ta có thể ngắm nhìn cảnh đẹp của vùng ven biển (sông Soài Rạp), xa xa là một phần đất xanh thẳm giống như một hòn đảo nhỏ trang điểm cho những dòng sông xa mờ…

Khu di tích lịch sử Bình Thành


Bình Thành là vùng đất có địa hình phức tạp thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.Trong kháng chiến chống Pháp, khu vực Bình Thành là căn cứ của Tỉnh ủy Chợ Lớn và khu 7 với tên gọi “Quân khu Đông Thành”. Trong kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy Long An và các cơ quan trực thuộc đã trú tại căn cứ Bình Thành để lãnh đạo phong trào cách mạng tỉnh nhà đến thắng lợi hoàn toàn.

Xung quanh khu vực Bình Thành vẫn còn nhiều dấu tích, những địa danh vang bóng một thời phản ánh quá trình hoạt động của Đảng bộ và quân – dân Long An trong hai thời kỳ kháng chiến. Năm 1999, Bộ Văn hóa – Thông tin đã công nhận các địa điểm thuộc căn cứ Bình Thành (khu di tích lịch sử cách mạng tỉnh Long An) là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia.

Ngã tư Đức Hòa


Ngã tư Đức Hòa tọa lạc tại điểm giao nhau giữa Tỉnh lộ 824 và Tỉnh lộ 825 thuộc trung tâm thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.


Tượng đài Võ Văn Tần - ngã tư Đức Hòa- long an

Khu vực ngã tư Đức Hòa là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng trong nhiều thời kỳ lịch sử, là niềm tự hào của người dân Đức Hòa nói riêng và của nhân dân Việt Nam nói chung trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Đến đây du khách sẽ được tham quan tượng đài đồng chí Võ Văn Tần, phòng trưng bày hiện vật, hình ảnh, nhà dinh quận Đức Hòa, hệ thống lô cốt, căn cứ bảo vệ của sư đoàn 25 ngụy và chi khu Đức Hòa, khu công viên cây xanh… tham quan tìm hiểu lịch sử địa phưong, dâng hương tưởng niệm để ôn lại truyền thống hào hùng của dân tộc.

Ngã tư Rạch Kiến

Ngã tư Rạch Kiến là giao lộ 18 và 19 tại trung tâm xã Long Hòa, huyện Cần Đước. Nơi đây, trong không gian khoảng 1km2, đây đó những sân bay dã chiến, bãi pháo, câu lạc bộ sĩ quan, khu trại quân sự … của căn cứ Mỹ gợi lại một thời gian khổ và hào hùng trên vành đai diệt Mỹ, Rạch Kiến – một thế trận chiến tranh nhân dân độc đáo thể hiện ý chí và sáng tạo của Đảng bộ và quân dân địa phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Wednesday, March 18, 2015

Cụm di tích Bình Tả – Long An

Được các nhà sử học người Pháp phát hiện từ năm 1910, trải qua bao thăng trầm, cụm di tích khảo cổ Bình Tả (gồm 3 di tích nhỏ là Gò Đồn, Gò Xoài, Gò Năm Tước, thuộc nền văn hóa Óc Eo) đã chứng tỏ được giá trị văn hóa lịch sử của nó; là tư liệu quý để khẳng định một thời vàng son của vương quốc Phù Nam.


   Di tích Gò Đồn: Là loại kiến trúc đền tháp xây bằng gạch, toàn bộ kiến trúc trước khi khai quật đều nằm trong lòng đất, chỗ gần mặt đất nhất là 0,4m. Cuộc khai quật đã thu thập được nhiều hiện vật bằng đá như tượng thần Dravapala (thần giữ đền), đầu tượng thần Ganesa (Phúc thần), nhiều vật thờ như Linga, Yoni, máng dẫn nước thiêng (Somasutra), bàn nghiền hương liệu (Pesani), mi cửa chạm trỗ hoa văn thực vật, trụ đá chạm hoa văn thực vật… và nhiều đồ gốm cổ. Trong hố thờ trung tâm của di tích sâu khoảng 3m còn có một linh vật (Yoni) đã vỡ và nhiều viên đá cuội, được đoán định là đá thờ. Với kiểu dáng kiến trúc và những linh vật được phát hiện trong lòng di tích, di tích Gò Đồn được nhìn nhận có đặc trưng của một kiến trúc đền thờ quy mô lớn thuộc Ấn Độ giáo, theo truyền thống văn hóa Óc Eo .


Di tích Gò Xoài: Là một di tích kiến trúc xây bằng gạch, có dạng gần vuông với mỗi cạnh dài khoảng 20m, nền móng của kiến trúc có cấu tạo rất rắn chắc và phức tạp, gồm nhiều loại vật liệu khác nhau như cuội basalt (ba- dan), sỏi đỏ, cát trắng, cát hồng…


Kiến trúc Gò Xoài có hố thờ hình vuông, ở gần đáy hồ thờ đã phát hiện được tro xương và một sưu tập hiện vật quý giá gồm nhiều mảnh vàng nhỏ, mỏng khắc chạm hình bông sen và những linh vật như rùa, rắn, voi, những chiếc nhẫn và mề đay nạm đá quý và một bản minh văn Sanskrit – Pali. Qua phát hiện trên, kiến trúc Gò Xoài được nhận định là một di tích stupa (tháp) của Phật giáo.



Di tích Gò Năm Tước: Là một di tích kiến trúc xây bằng gạch, phần trên của kiến trúc đã bị mất nhưng ở phần nền móng còn giữ được những đặc điểm của kiến trúc thuộc văn hóa Óc Eo như bình đồ hình chữ nhật bẻ góc nhiều lần và cân xứng nhau qua trục Bắc – Nam, các đường móng gạch rất thẳng, mặt chính của kiến trúc có tam quan hình bán nguyệt hướng về phía Đông… là cơ sở để nhận định rằng đây là một kiến trúc đền thờ Ấn Độ giáo.

Với quy mô lớn trên toàn khu vực, cụm di tích khảo cổ học Bình Tả có một vị thế trung tâm trên vùng đất phù sa cổ mà trung tâm này có thể có mối quan hệ rất gần với trung tâm Gò Tháp (Đồng Tháp) trên vùng đất trũng thấp rộng lớn liền kề. Khu di tích khảo cổ học Bình Tả đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm 1989.

Tuesday, March 17, 2015

Khu du lịch biển Khai Long – Cà Mau

Vùng biển Khai Long nằm ở phía Đông Nam Mũi Cà Mau, mới được đưa vào khai thác du lịch. Đến đây, du khách sẽ bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp hoang sơ và mới mẻ với bãi biển trong xanh được bao bọc giữa bốn bề hệ sinh thái rừng ngập mặn.


  Khai Long có diện tích 150 ha, được tạo hóa ban tặng cho một vị trí rất đặc biệt. Đứng trên bãi biển Khai Long khi bình minh ló rạng, du khách được ngắm mặt trời từ từ nhô lên từ phía biển Đông và khi chiều xuống du khách vẫn có thể chiêm ngưỡng vầng kim ô vàng rực từ từ lặn xuống phía biển Tây.


Khai Long – cái tên như gợi lên một truyền thuyết ngày xưa… Lâu lắm rồi, khi những di dân miền Trung – vùng kinh thành Thuận Hóa vào đây khai phá, ngụ cư để thoát khỏi sự ràng buộc của quan, quân phong kiến. Rong ruổi ngày đêm trên thuyền, đoàn di dân neo lại ở một cửa êm, sóng lặng. Một đêm đang chìm trong giấc ngủ, bỗng một ánh chớp cùng một đám mây kỳ dị sà xuống vùng biển nơi có đoàn thuyền đang neo đợi. Đám mây mang hình dáng con rồng được sinh ra. Mừng vui vì điềm lành xuất hiện, đoàn di dân áo vải tạ trời, lễ đất xin chọn nơi đây là quê hương thứ hai – cái tên bãi biển Khai Long ra đời từ đó…


Biển Khai Long có bãi cát rộng mênh mông, hàng năm cát lấn dần ra biển như muốn nối liền với cụm đảo Hòn Khoai. Phong cảnh ở đây rất đẹp và thoáng mát tạo cảm giác thoải mái, thư giản, thú vị cho du khách khi đến tham quan du lịch và nghỉ dưỡng.

Bạn có muốn về đây nằm nghe sóng biển rì rào, ăn vài con nghêu nướng thơm lừng, nhâm nhi món vọp luộc mùi gừng, cắn chiếc càng cua mọng thịt hay ăn sò huyết nhúng nước sôi với vài ba xị đế và cảm thấy mình như đang đi vào cõi bồng lai với những mộng mơ đời người?